Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1
Lịch sử ngành Kế hoạch và Đầu tư
Lượt xem: 226

Lịch sử phát triển ngành Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Nam Định

 

Ngày 02/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, Sau đó 4 tháng ngày 31/12/1945, Chủ tịch Hồ Chủ tịch đã ký sắc lệnh số 78/SL thành lập Ủy ban nghiên cứu kế hoạch, kiến thiết - tiền thân của ngành kế hoạch và đầu tư hiện nay.

Ngày 8/10/1955, Hội đồng Chính phủ ra quyết thành lập Ủy ban kế hoạch Quốc gia. Theo đó hệ thống cơ quan kế hoạch phát triển Quốc gia từ Trung ưng đến địa phương trên miền Bắc, trong đó có cơ quan kể hoạch của tỉnh Nam Định được thành lập.  

Trải qua quá trình xây dựng và trưởng thành, cùng với ngành kế hoạch và đầu tư cả nước, ngành kế hoạch và đầu tư tỉnh Nam Định đã ó những bước tiến quan trọng luôn kịp thời đáp ứng những nhiệm vụ tham mưu cho Tỉnh ủy, HĐND và UBND tỉnh về các chiến lược, quy hoạch phát triển; kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn, trung hạn và hàng năm, vận dụng và tổ chức thực hiện các cơ chế chính sách chung và một số lĩnh vực cụ thể của Nhà nước vào địa phương như đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài; tham mưu quản lý nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA); đấu thầu, thành lập phát triển doanh nghiệp và khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã; quản lý nhà nước các dịch vụ công trong ngành, lĩnh vực theo quy định của pháp luật, đóng góp vào thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh qua các thời kỳ.

1. Thời kỳ 1955-1960:

Nhiệm vụ trọng tâm của Uỷ ban kế hoạch là tham mưu cho tỉnh thực hiện nhiệm vụ xây dựng kế hoạch khôi phục kinh tế sau chiến tranh (1955-1957) và kế hoạch 3 năm cải tạo xây dựng cơ sở vật chất kinh tế xã hội, cải thiện đời sống dân cư (1958-1960). Các kế hoạch này đã tập trung giải quyết nhiệm vụ Xác lập quyền làm chú của nhân dân lao động, thực hiện người cày có ruộng, tiến hành hợp tác sản xuất với các hình thức từ tổ đổi công tiến lên hợp tác. Đến cuối năm 19ó0 đã có 75% số hộ nông dân vào hợp tác xã sản xuất Nông - Lâm - Ngư nghiệp. Sản xuất nông nghiệp đã được phục hồi, sản lượng lương thực được tăng lên

Đã tiếp quản các cơ sở công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng, dịch vụ công cộng, phục hồi những cơ sở bị phá hoại do chiến tranh hoạch bị địch phá vỡ, tiến hành cải tạo các xí nghiệp tư bản quốc hữu hoá và lập các xí nghiệp công ty hợp doanh, các hợp tác xã thủ công nghiệp.

Sự nghiệp giáo dục, văn hoá, y tế và đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, số trường học tăng hơn 2 lần, con em nhân dân lao động được cắp sách tới trường

2. Thời kỳ 1961-1965 - Kế hoạch 5 năm lần thứ Nhất

Đây là kế hoạch 5 năm đầu tiên cùng với các tỉnh của miền Bắc xây dựng CNXH và thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hoá ở miên Bắc, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, xây dựng các công trình lớn, hình thành một bước cơ sở vật chất kỹ thuật cúa nên kinh tế mới và quan hệ sản xuất mới, sở hữu quốc doanh và tập thế chiếm ưu thế tuyệt đối, Tháng 8 năm 1964, Mỹ đánh phá miền Bắc, kế hoạch phải chuyến sang thời chiến, những kết quả của kế hoạch 5 năm (1961-1965) có ý nghĩa quan trọng, tích luỹ được nhiều kình nghiệm, tạo tiền đê cho công tác kế hoạch của tỉnh góp phân cùng với các tình miên Bắc thực hiện việc chuẩn bị và chi viện cho chiến trường miền Nam.

3. Thời kỳ 1965-1975 - Là thời kỳ hợp nhất của Tính Nam Hà.

Ngành kế hoạch của tỉnh đã tập trung xây dựng kế hoạch kinh tế thời chiến, kế hoạch tuyển quân, kế hoạch hậu cân cho miền Nam. Chủ trương về kinh tế lúc này là tạm thời đình hoãn các công trình xây dựng cơ bản lớn, tập trung vào các công trình phục vụ chiến đấu như cầu, đường, hầm, kho tàng, cơ sở sơ tán, sơ tán các cơ sở kinh tế, trường học, bệnh viện,...về nơi an toàn nhằm mục tiêu đáp ứng các cao nhất vừa sản xuất vừa chiến đấu, bảo vệ thành quả CNXH đã giành được, góp phần chỉ viện cho tiền tuyến lớn miền Nam.

Các kế hoạch ngắn hạn 1969, 1972, 1973, 1975 đã được triển khai với nội dung cơ bản là phục vụ kinh tế của tỉnh sau chiến tranh phá hoại và cùng với các tỉnh miền Bắc chuẩn bị các dự án phát triển cơ sở hạ tâng KT-XH của thành phố, thị xã và các nơi trong tỉnh bị giặc Mỹ đánh phá ác liệt trong giai đoạn chiến tranh phá hoại miền Bắc.

Nhìn tổng quát lại thời kỳ này, công tác kế hoạch của tỉnh đã đạt được nhiều kết quả, góp phân cùng các tỉnh miền Bắc phục vụ cho mục tiêu chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miên Bắc và giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

4. Thời kỳ 10 năm sau thống nhất đất nước 1976-1985 là thời kỳ hợp

nhất thành tỉnh Hà Nam Ninh.

Nhiệm vụ trọng tâm của ngành kế hoạch là tham mưu cho tỉnh nghiên cứu, tổng hợp và xây dựng các kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (1976-1980), kế hoạch 5 năm lần thứ 3 (1981- 1985), nhằm cùng cả nước thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế - xã hội của chặng đường đầu tiến lên CNXH.

- Kế hoạch 5 năm (1976-1980): Thời kỳ này ngành kế hoạch của tỉnh đã tích cực tham gia vào công tác nghiên cứu định hướng chiến lược và các biện pháp lớn thực hiện kế hoạch như: nghiên cứu tổ chức lại sản xuất, xã hội, phân bổ lại lực lượng sản xuất trên địa bàn tỉnh, Tổ chức nghiên cứu quy hoạch phát triển của các ngành kinh tế, dự kiến phân vùng kinh tế Nông - Lâm - Ngư nghiệp, lập sơ đồ phân bổ lực lượng sản xuất của tỉnh

Cải tiến công tác quản lý trọng tâm là cải tiến công tác kế hoạch hoá, đảm bảo nguyên tác tập chung dân chủ, thực hiện chế độ hạch toán kinh tế ở các xí nghiệp quốc doanh. Tham gia cụ thể các nội dung vê tăng cường hiệu lực của bộ máy Nhà nước của tỉnh, trước hết là quán lý linh tế, phân hiệt rõ ranh giới giữa quản lý hành chính kinh tế và quản lý sản xuất kinh doanh.

- Kế hoạch 5 năm 1981-1985: Có được bước cải tiến quan trọng với hai mục tiêu Cơ bản là sắp xếp lại cơ cấu và đẩy mạnh cải tạo XHCN của nền kinh tế quốc dân.

Uỷ ban kế hoạch tỉnh đã trình Thường vụ Tỉnh uỷ và Thường trực UBND tỉnh kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1981-1985 của tỉnh với mục tiêu: Đáp ứng những nhu cầu cấp bách và thiết yếu nhất, dần dần ổn định đời sống nhân dân; tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, chủ yếu nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và xuất khẩu; tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản xuất, cùng cả nước đáp ứng các nhu cầu của công cuộc phòng thủ đất nước, củng cố quốc phòng và giữ vững an ninh trật tự.

Ngành kế hoạch đã tham mưu tích cực việc cụ thể hoá thực hiện các cơ chế kinh tế mới như cải tiến phân phối thu nhập quốc dân theo hướng thống nhất hài hoà ba lợi ích: Nhà nước, tập thể và cá nhân người lao động; đổi mới phương pháp và cơ chế kế hoạch hoá, giảm bớt số chỉ tiêu pháp lệnh, tăng quyền chủ động cho các ngành, các huyện và cơ sở, cụ thể hoá các nội dung của Nghị định 25/CP để “cởi trói” cho các doanh nghiệp Nhà nước và Chỉ thị 100 của Ban Bí thư về đổi mới cơ chế khoán sản phẩm trong nông nghiệp đã đưa lại những kết quả tích cực.

Thực hiện kế hoạch 1981-1985, nền kinh tế đã thu được nhiều thành tựu, sản xuất tăng khá, đời sống nhân dân bước đầu đã được cải thiện.

5. Thời kỳ 1986-2006:

- Đây là thời kỳ 20 năm đổi mới, có những sự thay đổi lớn và chuyển biến mạnh mẽ về chủ trương đường lối phát triển kinh tế ở mỗi giai đoạn và lập trường là chuyển từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nướC; chuyển nền kinh tế mang nặng tính tự cung tự cấp sang nền kinh tế mở cửa với bên ngoài, phát triển kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu... Tích cực huy động nhiều nguồn lực cho đầu tư của toàn xã hội. Mặc dù điều kiện kinh tế - xã hội của cả nước nói chung và tỉnh ta nói riêng còn rất nhiều khó khăn, yếu kém; nhưng dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh và của Bộ, ngành kế hoạch tỉnh Nam Định đã cố gắng phấn vươn lên về chất lượng công tác chuyên môn nghiệp vụ và đội ngũ cán bộ. | Thời kỳ này toàn ngành kế hoạch xác định công tác kế hoạch hoá phải hướng vào mục tiêu phát huy tới mức cao nhất nội lực của tất cả các thành phần kinh tế để thúc đấy sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá, tiếp cận nhanh và từng bước xây dựng nên kinh tế trí thức. Kế hoạch hoá phải đổi mới đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tạo điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế theo đường lối chỉ đạo của Đảng và Nhà nước. Việc đổi mới và kết quả công tác kế hoạch của ngành kế hoạch tỉnh được thể hiện trong các kế hoạch 5 năm của tỉnh.

- Trong kế hoạch 5 năm 1986-1990, ngành kế hoạch đã nghiên cứu xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 cùng ba chương trình kinh tế lớn về lương thực, thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu được triển khai vào từng phần kế hoạch, giảm mạnh việc bao cấp, bù lỗ vốn kinh doanh cho xí nghiệp và bù lỗ tiêu dùng qua giá, chuyến dần cấp phát ngân sách cho đầu tư sang tín dụng. Trong nông nghiệp Nghị quyết 10 năm 1988 (khoán 10) của Bộ Chính trị đã nhanh chóng đi vào cuộc sống. Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh dần dần được thừa nhận và hợp thức hoá bằng pháp luật.

- Kế hoạch 5 năm lần thứ 5 (1991-1995) với mục tiêu tổng quát là ổn định tình hình kinh tế - xã hội và chính trị, sớm thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng và lạm phát, tạo tiền đề đẩy nhanh sự phát triển trong giai đoạn tiếp theo,

Năm 1992 tái lập lại ngành kế hoạch tỉnh Nam Hà, cơ quan kế hoạch tỉnh đã tham mưu cho tỉnh ổn định nền kinh tế và tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, đầu tư theo chiều sâu, hiện đại hoá các cơ sở kinh tế, nhất là các cơ sở làm hàng xuất khẩu và tiếp tục đổi mới một cách đồng bộ cơ chế quản lý Nhà nước và cơ chế quản lý sản xuất kinh doanh, chuyển hẳn sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch và chính sách.

Chủ động cùng các ngành trong tỉnh, các huyện và thành phố Nam Định nghiên cứu xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 của tỉnh, được Uỷ ban kế hoạch Nhà nước và các ngành Trung ương thẩm định, UBND tỉnh phê duyệt.

- Kế hoạch 5 năm lần thứ 6 (1996-2000): Đến năm 1997 ngành kế hoạch tỉnh Nam Định được tái lập. Ngay sau khi tỉnh được tái lập, cơ quan kế hoạch đã khẩn trương nghiên cứu xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 và phương hướng, nhiệm vụ mục tiêu chủ yếu kế hoạch 5 năm 1996-2000 phục vụ Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XV.

Mục tiêu tổng quát của kế hoạch thời kỳ này là huy động sức mạnh tổng hợp của mọi thành phần kinh tế, tận dụng mọi lợi thế của tỉnh để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế văn hoá - xã hội, tạo tiền đề cần thiết cho giai đoạn phát triển cao hơn sau năm 2000. Mặc dù năm 1998 do tình hình thiên tai, thời tiết diễn biến phức tạp, có nhiều khó khăn chưa lường hết nhưng những mục tiêu kinh tế - xã hội của kế hoạch 5 năm cơ bản hoàn thành, một số chỉ tiêu vượt cao.

Ngoài ra ngành kế hoạch còn được giao chủ trì, cùng các ngành tham mưu nghiên cứu xây dựng Quy hoạch phát triển vùng kinh tế của tỉnh đến năm 2010 đã được UBND tỉnh phê duyệt; Xây dựng các chuyên đề phục vụ triển khai chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 4 của Ban chấp hành Trung ương khoá VIII về chuyển dịch cơ cấu đầu tư và sắp xếp, đổi mới DNNN của tỉnh. Tham gia nghiên cứu, xây dựng chương trình hành động của tỉnh thực hiện Nghị quyết 5 của Ban chấp hành Trung ương khoá VIII.

Chủ trì cùng các ngành, trong Ban chỉ đạo đối mới DNNN của tỉnh tham mưu nghiên cứu xây dựng và tổ chức thực hiện phương án sắp xếp đổi mới doanh nghiệp được Chính phủ phê duyệt.

6. Thời kỳ 2001-2005:

Trong Kế hoạch 5 năm 2001-2005, ngành Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp với các ngành, các cấp tham mưu xây dựng nhiều chương trình kinh tế và cơ chế chính sách về phát triển các khu, cụm công nghiệp, phát triển kinh tế biển, phát triển nông nghiệp, đẩy mạnh sắp xếp đổi mới DNNN, thực hiện đưa các chính sách, pháp luật mới vào đời Sống kinh tế - xã hội và đời sống doanh nghiệp. Đã hoàn thành một số công trình lớn, trọng điểm góp phần làm thay đổi diện mạo kinh tế - xã hội của tỉnh, tạo thuận lợi cho | thu hút các nhà đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh; Khu Công nghiệp Hoà Xá quy mô 327 ha được hình thành và lấp đầy; 15 cụm công nghiệp - làng nghề ở các huyện; khu đô thị mới Hoà Vượng; nhà máy chế biến các công suất 250 tấn/ngày; dự án thoát nước FA2, FA3; Sân vận động Thiên Trường quy mô 25 ngàn chỗ ngồi.

Kế hoạch 5 năm 2001-2005 đã hoàn thành tốt đẹp với hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu đều đạt và vượt mục tiêu đề ra. GDP tăng bình quân 7,65%/năm (chỉ tiêu tăng 7,0 - 7,5%), trong cơ cấu kinh tế tỷ trọng các ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ chiếm 65,5%. Hoạt động văn hoá xã hội có nhiều tiến bộ, giáo dục - đào tạo liên tục duy trì phát triển và là một trong những tỉnh dẫn đầu cả nước. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân có bước cải thiện rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh giảm từ 14,5% năm 2000 xuống 6,8% năm 2005.

7. Thời kỳ 2006-2010:

Kế hoạch 5 năm 2006-2010 của tỉnh được thực hiện trong bối cảnh công cuộc đối mới đất nước do Đảng lãnh đạo đã được những thành tựu to lớn, tình hình chính trị - xã hội trong tỉnh ổn định, các tầng lớp nhân dân đồng thuận và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên từ cuối năm 2007, đầu năm 2008 khủng hoảng tài chính, kinh tế toàn cầu diễn ra sâu rộng đã tác động bất lợi đến mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội nước ta. Trong tỉnh, thiên tai nhất là bão lũ, dịch bệnh ở người và cây trồng, vật nuôi liên tiếp xảy ra; lạm phát liên tục tăng cao đã ảnh hưởng xấu đến đời sống của mọi tầng lớp nhân dân trong tỉnh. | Trước tình hình đó Ngành Kế hoạch và Đầu tư đã tham mưu bám sát diễn biến tình hình kinh tế - xã hội, phối hợp với các ngành liên quan để xây dựng và đề xuất với UBND tỉnh các giải pháp điều hành thực hiện kế hoạch hàng tháng, hàng quý. Tích cực huy động các nguồn lực từ mọi thành phần kinh tế cho đầu tư phát triển và chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo hướng tập trung vào các mục tiêu nhiệm vụ phát triển các kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội quan trọng, đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của nhân dân, phát triển nguồn nhân lực, phát triển khoa học Công nghệ, xoá đói giảm nghèo...

Trong điều kiện có những thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen, trong đó có những khó khăn, thách thức gay gắt vượt xa so với dự báo, kế hoạch 5 năm 2006-2010 CÓ 11/18 chỉ tiêu chủ yếu đạt và vượt kế hoạch. Xây dựng mới một số công trình hạ tầng quan trong có tác động lâu dài đến sự phát triển kinh tế - xã hội, góp phần cải thiện đáng kể bộ mặt đô thị và nông thôn. Thành phố Nam Định đã và đang tập trung đầu tư phát triển thành đô thị trung tâm của tiểu vùng Nam đồng bằng sông Hồng và thành phố loại I trực thuộc tỉnh. Các lĩnh vực văn hoá xã hội được quan tâm chăm lo, chú trọng giải quyết việc làm và đảm bảo an sinh xã hội.

Cơ cấu tổ chức bộ máy của ngành Kế hoạch và Đầu tư thường xuyên được củng cố và điều chỉnh cho phù hợp với nhiệm vụ được giao, đáp ứng tốt nhất yêu cầu tham mưu các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh uỷ, HĐND và UBND tỉnh. Nhiều đồng chí lãnh đạo của ngành Kế hoạch và Đầu tư qua các thời kỳ đã phát triển trở thành những lãnh đạo chủ chốt của tỉnh và một số Bộ ngành, Trung ương. Đội ngũ cán bộ của ngành kế hoạch - đầu tư nhìn chung được đào tạo cơ bản, có phẩm chất đạo đức, trung thành với lý tưởng của Đảng và dân tộc, nhiều đồng chí trong cơ quan qua các thời kỳ được rèn luyện trong thử thách khắc nghiệt trong 2 cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, Các đồng chí liệt sỹ Nguyễn Ngọc Đồng; liệt sỹ Trần Sĩ Nhụ đã anh dũng hy sinh tại chiến trường, trong đó đồng chí liệt sỹ Nguyễn Ngọc Đồng đã được Nhà nưÓC truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang thời kỳ chống Mỹ cứu nước.

Với những thành tích đóng góp trong 15 năm qua, ngành kế hoạch và đầu tư Nam Định đã được tặng thưởng:

- Huân chương Lao động hạng ba (năm 1976)

- Huân chương Lao động hạng nhì (năm 1985)

- Hai Huân chương Lao động hạng nhất (năm 1995 và năm 2001)

- Huân chương Độc lập hạng ba (năm 2009)

Và nhiều huân, huy chương cao quý của Đảng và Nhà nước; bằng khen và Cờ thi đua của Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và UBND tỉnh trao tặng cho tập thể và các cán bộ công nhân viên của ngành qua các thời kỳ.

Ngành kế hoạch và đầu tư Nam Định có được phong trào và kết quả đạt được trên đây trong suốt chặng đường phát triển, trước hết đó là nhờ vào sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Tỉnh uỷ, HĐND và UBND tỉnh; của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các Bộ ngành liên quan, cùng các Sở, ban, ngành, các huyện thành phố, các tổ chức chính trị, đoàn thể trong tỉnh đã thường xuyên phối hợp, động viên.

Hiện nay, hướng vào việc thực hiện các mục tiêu quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Ngành Kế hoạch và Đầu tư cùng với các Sở, Ban, ngành, các huyện, thành phố trong tỉnh đang tích cực tham mưu và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 20102015 mà Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII đề ra.

Tiếp tục cụ thể hoá các nội dung của Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Nam Định đến 2020 và tìm các giải pháp hữu hiệu để thực hiện kế hoạch 5 năm 2010-2015 phấn đấu đạt tốc độ phát triển kinh tế cao và bền vững. Tạo những đột phá mới để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trọng tâm là là Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, phấn đấu rút ngắn khoảng cách về phát triển kinh tế so với vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.

Trải qua chặng đường 65 năm xây dựng và trưởng thành, ngành Kế hoạch và Đầu tư Nam Định qua từng thời kỳ đã kế thừa và phát huy được truyền thống của ngành từ những ngày đầu được thành lập; luôn luôn xứng đáng với lòng tin cậy của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tỉnh uỷ, HĐND và UBND tỉnh.

Tin khác
TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ SỞ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ TỈNH NAM ĐỊNH
Giấy phép của Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Nam Định Số 06/GP-STTTT ngày 21/9/2016
Người chịu trách nhiệm chính: Ông Mai Văn Quyết - Giám đốc sở
Địa chỉ: 172 Hàn Thuyên - TP Nam Định - Tỉnh Nam Định
Điện thoại: 0228.3648482 - Fax: 0228.3647120
  
Chung nhan Tin Nhiem Mang